Tranh chấp hợp đồng thương mại - Lãi chậm thanh toán và Án lệ 09 (Kỳ cuối) 27/08/2021. Án lệ 09 đã đưa ra hai giải pháp pháp lý nhằm giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại liên quan đến lãi chậm thanh toán. Trong kỳ này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu Án lệ 09 đã giải
Đơn khiếu nại quyết định hành chính Giấy Vay Tiền (Đơn Phương) Đơn Đề Nghị Hòa Giải Tranh Chấp Lao Động (2021) Đơn Đề Nghị Giải Quyết Hòa Giải Tranh Chấp Đất Đai Giấy Vay Tiền (Thỏa Thuận Vay Tiền Mẫu Ngắn) Thỏa Thuận Trọng Tài (Free Tài Liệu)** Thông Báo Chấm Dứt Hợp Đồng Tự Nguyện Chào Hàng Báo Giá (2022) Cá Nhân, Gia Đình
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU PHONG, TỈNH QUẢNG TRỊ. BẢN ÁN 06/2022/DS-ST NGÀY 11/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC. Ngày 11 tháng 5 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 04/2022/TLST-DS ngày 17 tháng 02 năm 2022 về việc
LĨNH VỰC KINH DOANH Xác lập điều khoản đặt cọc và tạm ứng trong hợp đồng Hợp đồng được xác lập và thực hiện dựa trên thiện chí của các bên. Thông thường tại thời điểm giao kết, các cam kết được ghi nhận tại hợp đồng vẫn được các bên tuân thủ. Tuy nhiên,
Mục giải quyết khi có tranh chấp giữa 2 bên, hoặc 1 trong 2 bên vi phạm hợp đồng; Bên B sẽ đặt cọc cho Bên A số tiền thuê nhà xưởng, kho bãi là: Thanh toán tiền thuê nhà xưởng, kho bãi chậm 03 tháng trở lên so với thời điểm thanh toán tiền đã ghi trong hợp đồng
Nhà nghiên cứu, chuyên gia pháp lý Tranh chấp hợp đồng đặt cọc (09.02.2022) Quan hệ pháp luật: Các yêu cầu kinh doanh thương mại trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng. Cấp xét Bản án: số 09/2018/KDTM-ST ngày 28/09/2018 của TAND huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang
82GdE. Tiền đặt cọc thuê nhà là gì?Tiền đặt cọc thuê nhà là khoản tiền bên thuê nhà nộp cho chủ nhà trước khi ký hợp đồng cho thuê nhằm đảm bảo hợp đồng thuê nhà được thực hiện. Điều này giúp bảo vệ quyền lợi cho cả bên cho thuê và bên thuê khác, tiền đặt cọc thuê nhà cũng chính là một phương tiện đảm bảo hữu hình nếu có trường hợp người thuê nhà làm hư hỏng, làm mất tài sản hoặc người thuê nhà vi phạm một số điều khoản của hợp đồng thuê nhà đặt cọc thuê nhà cũng còn biết đến với một số tên gọi khác nữa như Tiền đặt cọc đảm bảo việc thực hiện hợp đồng hoặc tiền đặt cọc cho những thiệt đặt cọc thuê nhà cũng chính là một phương tiện đảm bảo hữu hình nếu có trường hợp người thuê nhà vi phạm một số điều khoản của hợp đồng thuê nhà cọc thuê nhà bao nhiêu?Theo luật đất đai 2022, không có quy định cụ thể nào nói về số tiền đặt cọc là bao nhiêu. Số tiền đặt cọc thuê nhà thường do hai bên tự thỏa thuận với đặt cọc thuê nhà dành cho các loại hình cho thuê phổ biến như sauTiền đặt cọc thuê căn hộ dịch vụ Hợp đồng thuê 6 tháng – đặt cọc trước 01 tháng tiền thuê. Hợp đồng 12 tháng sẽ đặt cọc 02 tháng tiền đặt cọc thuê căn hộ chung cư Tiền đặt cọc sẽ là 02 tháng tiền thuê. Không phụ thuộc vào khoảng thời gian thuê nhà. Một số chủ nhà còn yêu cầu người thuê tiền đặt cọc trước là 03 tháng tiền đặt cọc thuê nhà nguyên căn, biệt thự và các cơ sở thương mại Hợp đồng thuê dưới 3 năm thường đặt cọc 02 tháng tiền thuê. Hợp đồng thuê trên 3 năm sẽ đặt cọc 03 tháng tiền nhiên, vẫn có một số chủ nhà yêu cầu người thuê nhà đóng tiền đặt cọc cao hơn từ 4, 5, 6 tháng và nó sẽ tùy thuộc vào tài sản có bên trong căn nhà đặt cọc thuê nhà có lấy lại được không?Chủ nhà sẽ trả lại số tiền đặt cọc cho bên thuê nhà sau khi hết hợp đồng thuê nhà với điều kiện bên thuê không vi phạm điều khoản nào trong hợp đồng. Số tiền này được xem như điều kiện đảm bảo hiệu lực của hợp đó, các bên tham gia cần thành lập một văn bản có chữ ký, quy định tiền đặt cọc mua nhà cẩn thận, xác nhận đầy đủ để tránh những tranh chấp tiền đặt cọc thuê nhà không đáng có sau đặt cọc thuê nhà sẽ được chủ nhà trả lại cho người thuê khi hết hạn hợp đồng, nếu người thuê không vi phạm chấp tiền đặt cọc thuê nhàViệc đặt cọc thuê nhà thường xảy ra tranh chấp khi chủ nhà không trả lại tiền cọc cho người thuê sau khi hợp đồng thuê nhà hết hiệu đây, chúng tôi sẽ chia thành 2 trường hợp tranh chấp tiền đặt cọc thuê nhà như sauTrường hợp người thuê nhà mất tiền đặt cọcNgười thuê nhà có thể bị mất số tiền đặt cọc đã nộp cho chủ nhà từ đầu nếuNgười thuê nhà đơn phương chấm dứt hợp đồng khi vẫn còn trong thời gian thực thuê nhà tự ý tháo dỡ và sửa chữa nhà nghiêm trọng khi không được sự đồng thuận của chủ thuê vi phạm các điều khoản được quy định trong hợp đồng thuê hợp người thuê nhà lấy lại tiền đặt cọcNgười thuê nhà lấy lại được tiền đặt cọc nếuHợp đồng cho thuê nhà hết hiệu lực, người thuê nhà không vi phạm quy định gì trong hợp đồng, và trả lại căn nhà gọn gàng như lúc ban đầuNgười cho thuê đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với người thuê trong thời gian hợp đồng vẫn còn hiệu lực để cho bên thứ 3 cho thuê không sửa chữa nhà khi nhà có dấu hiệu giảm sút nghiêm trọng, có nguy cơ gây ảnh hưởng đến cuộc sống, sức khỏe và tính mạng của người đi cho thuê đột ngột tăng giá nhà một cách bất hợp lý không theo những điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng giữa hai tránh tranh chấp tiền đặt cọc thuê nhà khi hết hạn hợp đồngNhiều người thuê nhà khi trả lại thì bị chủ nhà tìm đủ mọi lý do để không hoàn lại tiền đặt cọc. Trường hợp gặp nhiều nhất là chủ nhà lấy cớ căn nhà bị hư hỏng, sai khác so với lúc mới dọn vào, nên giữ lại tiền đặt cọc coi như tiền đền đó, Houze Agent sẽ mách các bạn đi thuê nhà 3 cách nào để tránh rơi vào trường hợp trên nhé1. Chụp ảnh, quay phim lại căn nhà thuê trước khi dọn vào ởTrước khi chính thức dọn vào ở, bạn nên quay lại video hoặc chụp ảnh từng ngóc ngách trong căn nhà. Người thuê nhà cần đặc biệt chú ý các khu vực hay gặp vấn đề, bị xuống cấp, những món đồ đã bị hư hỏng nhẹ, sau đó xác nhận lại với chủ nhà rồi lưu lại trong kho ảnh của chắc chắn chủ nhà không thể bác bỏ về thời điểm chụp của bức ảnh lưu lại hiện trạng căn phòng, các bạn nên gửi chúng qua email hoặc tin nhắn để ghi dấu thời là cách lấy lại tiền cọc thuê nhà khá hiệu quả cũng như giúp người thuê tránh được một số mâu thuẫn, xung đột sau khi chuẩn bị dọn đi. Chủ nhà sẽ không thể lấy những khuyết điểm vốn có của căn nhà ra để bắt đền thuê nhà nên chụp lại mọi ngóc ngách trong căn nhà trước khi dọn vào Dọn dẹp căn nhà sạch sẽ trước khi chuyển đi Trước khi dọn đi, bạn phải chắc chắn đã thu dọn sạch những món đồ cá nhân của mình, dọn dẹp lại căn nhà một cách gọn gàng và sạch sẽ nhất có thể. Tốt nhất bạn không nên để lại bất cứ tài sản gì của bạn lại trong phòng tế đã có nhiều chủ nhà khó tính, nếu đồ đạc của bạn vẫn để lại trong nhà, họ sẽ xem như bạn chưa chuyển đi. Vì vậy họ sẽ đòi thêm tiền thuê của thời gian ở lại đó bằng việc trừ vào tiền Chủ động tìm người thuê mới nếu muốn chuyển đi trước hạn hợp đồngNếu bạn muốn chuyển đi trước hạn hợp đồng mà vẫn có thể lấy lại được tiền cọc thì cách tốt nhất là bạn hãy chủ động tìm được người thuê mới cho căn nhà vậy, người thuê mới sẽ nối tiếp hợp đồng của bạn, họ cũng sẽ đưa tiền cọc thuê nhà cho bạn, còn chủ nhà thì không cần trả tiền cọc cho nhiên, nếu bạn muốn chuyển đi quá gấp thì cũng khó thực hiện được theo cách này vì không thể ngày một, ngày hai mà tìm được người thuê nhà nối tiếp hợp đặt cọc thuê nhà là khoản phí không thể tránh khỏi khi thuê nhà. Vì vậy, người thuê nhà cần nắm rõ những điều trên đây để không bị thiệt thòi và thực hiện đúng quy định của pháp vừa xem qua bài viết "Tiền đặt cọc thuê nhà bao nhiêu? Có lấy lại được sau khi chuyển đi không?". Ngoài ra, bạn cũng có thể tham khảo các bài viết dưới đâyTất tần tật mọi điều cần biết trước khi mua chung cư trả góp5 lợi ích khi đầu tư BĐS dài hạn lời nhiều hơn, sống thọ hơn,...Hướng dẫn chi tiết chụp hình căn hộ để đăng tin nhiều người xem6 góc 1 mét vuông’ dễ bị lãng phí nhất trong căn hộ, và cách tận dụngDanh sách căn hộ Quận 2 cho thuê dưới 6 triệu/thángChủ nhà hay người thuê nhà phải sửa khi nhà cho thuê bị hư hỏng?5 rủi ro khi mua đất sổ chung, ở không được, bán không xongCách để được duyệt vay mua nhà giữa lúc siết tín dụng bất động sản5 nguyên tắc 'vàng' để đầu tư BĐS dự án không bị chôn vốn8 tiêu chí quyết định thắng thua trong đầu tư bất động sảnMua chung cư trả góp chưa thanh toán xong có bán được không?3 hình thức mua chung cư trả góp phổ biến nhất hiện nayThu Hồ
Tiền đặt cọc thuê nhà – bạn cần thanh toán một số tiền cụ thể cho chủ nhà trước khi bắt đầu hợp đồng thuê nhà. Tại sao bạn cần đặt cọc khi thuê nhà?Bạn khá quen thuộc với các chi phí và thanh toán tiền thuê khi thuê nhà. Nhưng khá mơ hồ về tiền đặt cọc thuê nhà. Vậy, đặt cọc thuê nhà là gì? Tiền đặt cọc là bao nhiêu? Chủ nhà có hoàn trả lại tiền đặt cọc không? Hay làm cách nào để bạn lấy lại toàn bộ tiền đặt cọc khi kết thúc hợp đồng thuê nhà?Ý nghĩa của tiền đặt cọc thuê nhà là gì? Tất cả mọi thứ bạn cần biết về tiền đặt cọc khi thuê nhàTrong bài viết này, JHouse sẽ trả lời tất cả các câu hỏi của bạn liên quan đến khoản tiền đặt cọc bảo đảm khi thuê nhà tại Việt Nam. Mục tiêu lớn nhất của bài viết này là giúp bạn hiểu ý nghĩa đặt cọc và lấy lại toàn bộ tiền đặt cọc khi kết thúc hợp đồng thuê Tiền đặt cọc thuê nhà là gì?Tiền đặt cọc thuê nhà là một khoản tiền cụ thể mà người thuê nhà phải trả cho chủ nhà trước khi chuyển đến ở. Được xem như là một cam kết thực hiện hợp đồng thuê nhà của người thuê và bảo vệ tài sản của chủ nhà khỏi bị hư nghĩa của tiền đặt cọc thuê nhà là một phương tiện đảm bảo hữu hình trong trường hợp người thuê làm hư hỏng, mất tài sản hoặc vi phạm các điều khoản của hợp đồng đặt cọc thuê nhà còn có thể biết đến với các tên gọi khác như Tiền đặt cọc đảm bảo thực hiện hợp đồng hoặc tiền đặt cọc thiệt Có bao nhiêu loại tiền đặt cọc khi thuê nhà?Tiền đặt cọc đảm bảo là tên gọi chung để chỉ số tiền mà người thuê phải cung cấp cho chủ nhà. Tuy nhiên, tiền đặt cọc gồm 4 loại sau phổ biến sauTiền đặt cọc thực hiện hợp đồng thuê nhà và bảo vệ tài sản cho chủ đặt cọc cho thú đặt cọc cho một tài sản có giá trị cao hoặc đặc đặt cọc chỗ đậu xe ô thêm Đặt cọc cho thú cưng là gì? Và, những điều cần lưu ý3. Có lựa chọn thay thế nào cho tiền đặt cọc không?Hầu hết sẽ thực hiện đặt cọc theo kiểu truyền thống. Nghĩa là bạn sẽ trả cho chủ nhà một số tiền đặt cọc nhất định trước khi chuyển đến ở. Tuy nhiên, vẫn có những phương án thay thế khi thanh toán tiền đặt cọc nhằm giảm gánh nặng tài chính khi bắt đầu hợp đồng thuê hiểm cho thuê được hiểu là một khoản phí nhỏ mà bạn cần thanh toán cho chủ nhà hàng tháng. Là một phần tiền cộng thêm ngoài phần tiền thuê hàng tháng mà bạn cần thanh toán. Tiền phí bảo hiểm cho thuê khoảng 5%, 10%, 15% hoặc 20% của tiền thuê hàng tháng. Và khoản tiền phí này sẽ không được hoàn trả cho người thuê khi kết thúc hợp dụ Tiền thuê nhà hàng tháng là 10,000,000 vnđ. Tiền phí bảo hiểm là 10%. Vậy, tổng tiền thuê nhà hàng tháng bạn cần thanh toán là 11,000,000 trả cho mỗi thiệt hại Bạn sẽ thanh toán cho các thiện hại/ mất tài sản cho mỗi thiệt hại. Tuy nhiên, bạn cần chứng minh bạn là người thuê nhà có lịch sử thanh toán tốt, bồi thường thiệt hại nhanh chóng, … tại các căn nhà trước tiến độ thanh toán đặt cọc Bạn có thể đề nghị thanh toán nhiều lần cho khoản tiền đặt cọc để giảm áp lực tài chính ngay lúc ban dụ Bạn có thể đề xuất với chủ nhà thanh toán tiền đặt cọc như sau thanh toán 50% ngay khi vào ở và 50% còn lại sau 2 Căn cứ để quy định tiền đặt cọc thuê nhà?Tại Việt Nam, chưa có luật nào đưa ra các căn cứ để quy định tiền đặt cọc thuê nhà. Tuy nhiên hầu hết chủ nhà thường căn cứ vào 4 yếu tố phổ biến sau để tính tiền đặt cọcTheo thông lệ chung của thị trường địa thuê nhà hàng trị của tài sản bên trong căn gian thuê Tiền đặt cọc thuê nhà là bao nhiêu?Không có quy định cụ thể về số tiền đặt cọc là bao nhiêu. Tuy nhiên, tùy theo thời gian thuê và loại tài sản sẽ có mức đặt cọc tối thiểu. Tiền đặt cọc thuê nhà cho các loại hình cho thuê phổ biến như sauCăn hộ dịch vụ Hợp đồng 6 tháng – đặt cọc 1 tháng tiền thuê. Hợp đồng 12 tháng – đặt cọc 2 tháng tiền hộ chung cư Tiền đặt cọc là 2 tháng tiền thuê. Không phụ thuộc vào thời gian thuê nhà. Một số chủ nhà sẽ yêu cầu tiền đặt cọc là 3 tháng tiền nguyên căn, biệt thự và cơ sở thương mại Hợp đồng dưới 3 năm – đặt cọc 2 tháng tiền thuê. Hợp đồng trên 3 năm – đặt cọc 3 tháng tiền thuê. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp chủ nhà yêu cầu tiền đặt cọc cao hơn 4, 5, 6 tháng và nó tùy thuộc vào tài sản bên trong ngôi ý đặc biệt với người nước ngoài khi thuê nhà tại Việt Nam. Việt Nam không sử dụng “Điểm tín dụng”. Vì vậy, tiền đặt cọc không phụ thuộc vào điểm tín dụng của Khi nào bạn cần thanh toán tiền đặt cọc thuê nhà?Bạn cần thanh toán tiền đặt cọc thuê nhà ngay khi ký hợp đồng đặt cọc hoặc hợp đồng thuê nhà và trước ngày bạn chuyển đến ở. Tuy nhiên, có thể thanh toán tiền đặt cọc sau 2-3 ngày kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc hoặc hợp đồng thuê thêm Mẫu hợp đồng đặt cọc thuê nhà7. Tiền đặt cọc thuê nhà có được tính lãi suất không?Tại Việt Nam, không yêu cầu bạn ký quỹ tiền đặt cọc thuê nhà. Chỉ cần bạn thanh toán tiền đặt cọc và chủ nhà sẽ giữ chúng. Để không rắc rối, chủ nhà thường để mức lãi suất là 0%, có thể hiểu là không tính lãi suất với số tiền đặt cọc. Tuy nhiên, bạn cần hỏi chủ nhà về mức lãi suất khoản tiền đặt cọc nếu Tiền đặt cọc có thể sử dụng làm tiền thuê nhà không?Tiền đặt cọc không được sử dụng làm tiền thuê nhà. Tuy nhiên, việc gì củng có thể xảy ra. Người thuê có thể đề xuất với chủ nhà xem xét tiền đặt cọc như khoản tiền thuê nhà vào tháng cuối cùng của hợp đồng. Hãy đàm phán với chủ nhà trước khi ký hợp đồng Chấm dứt hợp đồng thuê nhà sớm, có được lấy lại tiền đặt cọc không?Khi người thuê chấm dứt hợp đồng thuê nhà sớm sẽ mất toàn bộ tiền đặt cọc. Tuy nhiên, trong trường hợp người thuê nhà chứng minh được lý do hợp lý cho việc không tiếp tục hợp đồng thuê như chuyển công tác sang tỉnh thành khác, bị bệnh nặng, …. Chủ nhà có thể cân nhắc một số giải pháp để hỗ trợ người thuê lấy lại một phần hoặc toàn bộ tiền đặt Tôi sẽ nhận được tiền đặt cọc khi chủ nhà phá vỡ hợp đồng thuê nhà không?Người thuê nhà sẽ nhận được toàn bộ tiền đặt cọc của mình khi chủ nhà phá vỡ hợp đồng thuê nhà. Hợp đồng đặt cọc hoặc hợp đồng thuê nhà sẽ quy định rõ về việc này. Chủ nhà cần phải hoàn trả lại toàn bộ tiền đặt cọc cho khách thuê và một khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng tương đương với 02 lần số tiền đặt có thể xem thêm trách nhiệm của chủ nhà khi đồng ý thỏa thuận đặt cọc thuê nhà với người Những trường hợp chủ nhà có thể trừ tiền đặt cọc của bạn?Chủ nhà có quyền khấu trừ một phần hoặc toàn bộ tiền đặt cọc thuê nhà của bạn nếu phát sinh thiệt hại miễn sao có lý do chính đáng và được quy định trong hợp đồng. Dưới đây là 7 trường hợp trừ tiền đặt cọc thuê nhà phổ biếnKhi có thiệt hại về tài sảnKhông dọn dẹp, làm sạch căn hộ trước khi chuyển điCó nhiều trang thiết bị bị bỏ lại sau khi chuyển điKhông thanh toán tiền thuê nhàKhông thanh toán các hóa đơn tiện íchKhi cần sơn lại nhàChấm dứt hợp đồng sớmBạn nên quan tâm đến các quy tắc chung và các trường hợp chủ nhà có thể trừ tiền đặt cọc thuê nhà của bạn? Để tránh các tranh chấp tiền đặt cọc thuê nhà với chủ nhà và lấy lại toàn bộ số tiền đặt cọc khi kết thúc thời gian thuê ý Mọi tài sản đều bị hao mòn tự nhiên và chủ nhà không thể khấu trừ tiền đặt cọc thuê nhà của bạn để bù đắp cho các hao mòn tự nhiên đó. Bạn có thể tìm hiểu sự khác nhau giữa hao mòn tự nhiên và thiệt hại tài sản để giúp bạn tránh các tranh chấp với chủ nhà khi chuyển Khi nào chủ nhà hoàn trả tiền đặt cọc cho bạn?Hoàn trả tiền đặt cọc sẽ được quy định trong Hợp đồng đặt cọc thuê nhà hoặc Hợp đồng thuê nhà. Thông thường, chủ nhà sẽ hoàn trả tiền đặt cọc ngay khi kết thúc hợp đồng thuê nhà hoặc 7 ngày sau khi kết thúc hợp đồng thuê. Hãy đàm phán với chủ nhà về thời gian hoàn trả tiền đặt cọc ngắn nhất có thể trước khi ký hợp đồng thuê nên tìm hiểu Thỏa thuận đặt cọc thuê nhà để đảm bảo tiền đặt cọc được sử dụng hiệu quả và an toàn quay trở về với bạn khi kết thúc hợp Làm thế nào để lấy lại tiền đặt cọc của bạn?Lấy lại tiền đặt cọc là một phần quan trọng khi bạn kết thúc hợp đồng thuê nhà. Tiền đặt cọc là tiền của bạn và bạn không mong muốn nó bị mất hoặc bị trừ khi bạn chuyển ra khỏi căn hộ. Chủ nhà có trách nhiệm hoàn trả lại tiền đặt cọc khi kết thúc hợp đồng thuê lấy lại tiền đặt cọc là một quá trình dài, đòi hỏi ban phải tuân thủ các quy tắc và các bước thực hiệnBước 1 Trước khi ký hợp đồng thuê nhà hãy làm rõ điều khoản đặt cọc thuê nhà với số tiền cần đặt cọc, thời gian thanh toán đặt cọc, biên nhận đặt cọc, các khoản phí phát sinh từ tiền đặt cọc, chính sách hoàn trả tiền đặt cọc, khấu trừ tiền đặt cọc, hao mòn, … trong hợp đồng thuê 2 Trước khi chuyển vào ở hai bước kiểm tra. 1/ Kiểm tra tình trạng căn hộ trước khi chuyển đến. 2/ Danh sách bàn giao nội thất, trang thiết bị bên trong căn 3 Trong thời gian sinh sống, bạn cần thanh toán đầy đủ tiền thuê và các hóa đơn tiện ích nếu có. Giữ căn hộ ở tình trạng tốt 4 Trước khi chuyển ra, bạn cần thông báo cho chủ nhà trước 30 ngày, thanh toán đầy đủ tiền thuê và các hóa đơn. Dọn dẹp sạch sẽ căn hộ và thực hiện sửa chữa các hư hỏng nếu có.Bạn có thể xem bài viết chi tiết quy trình 4 bước đơn giản để lấy lại tiền đặt cọc thuê nhà một cách nhanh chóng và an Bạn cần làm gì nếu chủ nhà của không hoàn trả tiền đặt cọc?Nếu chủ nhà không hoàn lại tiền đặt cọc, điều đầu tiên cần làm là xác định xem chủ nhà có lý do hợp lý để giữ lại tiền đặt cọc của bạn hay không. Xem xét hợp đồng đặt cọc và hợp đồng thuê nhà, điều khoản hoàn trả tiền đặt cọc, hao mòn thông thường, …Để tránh trường hợp chủ nhà chiếm đoạt tiền cọc thuê nhà. Bạn cần yêu cầu chủ nhà cung cấp danh sách chi tiết các thiệt hại cùng với hóa đơn sửa chữa/ mua sắm hoặc vi phạm hợp đồng thuê nhà khiến tiền đặt cọc của bạn không được hoàn trả có thể tìm câu trả lời cho vấn để của bạn bằng cách xem xét các quy tắc chung để giữ tiền đặt cọc thuê nhà hợp pháp của chủ nhà và các mẹo để bảo vệ tiền đặt cọc của bạn khi thuê nhà tại Việt đặt cọc thuê nhà là một phần thiết yếu của quy trình thuê nhà đối với bất kỳ nơi nào bạn muốn thuê. Và, là một công cụ tuyệt vời để chủ nhà tự bảo vệ mình trước bất kỳ thiệt hại hoặc vi phạm hợp đồng thuê nhà từ người trình bày theo hình thức hỏi-đáp với 14 câu trả lời ngắn gọn và dễ hiểu. JHouse hi vọng bạn đã hiểu ý nghĩa của tiền đặt cọc thuê nhà, cách mà tiền đặt cọc hoạt động cũng như mẹo để bảo vệ và cách lấy lại tiền đặt cọc thuê nhà khi bạn chuyển ra. Chúc bạn thuê nhà vui vẻ!JHouse Content Team Đội ngũ phát triển nội dung chuyên sâu về dịch vụ nhà ở cho người Nước ngoài và Việt Nam. Nội dung đơn giản, dễ hiểu, được sắp xếp logic mang đến bạn đọc những chủ đề và thông tin hữu ích từ kinh nghiệm thực tế. JHouse hoan nghênh chia sẽ và sao chép từ các bạn – Vui lòng đính kèm nguồn và trích dẫn từ JHouse.
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHBẢN ÁN 1011/2019/DS-PT NGÀY 11/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THUÊ NHÀ Ngày 11 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 417/DSPT ngày 05/9/2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà”.Do bản án dân sự sơ thẩm số 228/2019/DSST ngày 09/7/2019 của Tòa án nhân dân Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4372/2019/QĐPT-DS ngày 23 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 8499/2019/QĐPT-DS ngày 21/10/2019 giữa các đương sự*Nguyên đơn Ông Phan Văn Q, sinh năm 1967 Địa chỉ Số 182/4 đường A, Phường L, quận X, Thành phố Hồ Chí đại diện hợp pháp của nguyên đơn1. Ông Nguyễn R, sinh năm 1985 – đại diện theo ủy chỉ Số 519/2/9 đường S, Phường O, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh có mặt.2. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1983 – đại diện theo uỷ quyền. Địa chỉ Ấp P, xã M, huyện V, tỉnh E.Theo Văn bản ủy quyền số 018587 ngày 25/10/2019.*Bị đơn Bà Trần Thị Y, sinh năm chỉ Số 152E, đường D, phường P, quận B, Thành phố Hà đại diện hợp pháp của bị đơn ông Nguyễn Xuân U, sinh năm 1976. Địa chỉ Phòng lầu 2, toà nhà X, số 38 đường G, phường M, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.Theo văn bản uỷ quyền số 003230, quyển số 02/TP/CC-SCC/UQ, ngày 21/8/2019Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Ông Ngô Trọng I – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh S.*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Vũ Đình O, sinh năm 1979 Địa chỉ Số 155/11 đường H, phường K, Quận Q, Thành phố Hồ Chí đại diện hợp pháp Ông Nguyễn Xuân U, sinh năm 1976 – đại diện theo ủy quyền Văn bản ủy quyền số 09002631 ngày 16/3/2016.Địa chỉ Số 16, đường K, phường I, quận E, Thành phố Hồ Chí Ông Nguyễn Bá P, sinh năm 1984Địa chỉ Số 194/17 đường A, Phường L, quận X, Thành phố Hồ Chí đại diện hợp pháp Ông Nguyễn Xuân U, sinh năm 1976 – đại diện theo ủy quyền Văn bản ủy quyền số 09002630 ngày 16/3/2016.Địa chỉ Số 16, đường K, phường I, quận E, Thành phố Hồ Chí Minh. Người kháng cáo Bị đơn bà Trần Thị DUNG VỤ ÁN* Trong đơn khởi kiện đề ngày 08/6/2015 và quá trình chuẩn bị xét xử người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Phan Văn Q trình bàyÔng Phan Văn Q là chủ sở hữu căn nhà tại địa chỉ số 39 đường L, phường U, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 981280, số vào sổ cấp GCN H 02039 do Ủy ban nhân dân Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Võ Văn A và bà Tăng Thị S ngày 03/10/2006; ông Phan Văn Q nhận chuyển nhượng theo Hợp đồng số 9620 tại Phòng công chứng E ngày 25/4/2008, cập nhật thay đổi chủ sở hữu ngày 23/5/2008. Đồng thời, ông Phan Văn Q là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Một thành viên Khách sạn N, trụ sở chính Số 39, đường L, phường U, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh với ngành nghề kinh doanh khách 28/8/2013, ông Phan Văn Q và bà Trần Thị Y có ký Hợp đồng thuê khách sạn và tài sản tại địa chỉ số 39, đường L, phường U, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo nội dung hợp đồng, ông Q cho bà Y thuê toàn bộ diện tích nhà đất số 39 đường L, phường U, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh để kinh doanh trong lĩnh vực khách sạn với thời hạn thuê 05 năm từ ngày 10/9/2013 đến ngày 09/9/2018, giá thuê từ ngày 10/9/2013 đến 09/9/2014 là đồng/tháng, từ ngày 10/9/2014 đến 09/9/2015 là từ ngày 10/9/2015 đến 09/9/2018 là USD/tháng, thanh toán bằng đồng Việt Nam. Do căn nhà cho thuê ông Q đang thế chấp vay ngân hàng tại thời điểm các bên lập hợp đồng thuê khách sạn và tài sản do đó các bên chỉ lập hợp đồng tay mà không công chứng. Cùng ngày, bà Y cũng đã đặt cọc cho ông Q số tiền đồng để đảm bảo cho hợp đồng thuê. Tuy nhiên, cũng vì lý do trên mà hai bên không thể lập hợp đồng đặt cọc tại công chứng nên mới lập Hợp đồng vay số tiền trên tại Phòng công chứng Q cho bà Y thuê nhà với tư cách cá nhân nhưng do ông Q đã đăng ký kinh doanh khách sạn và được Sở kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty TNHH Một thành viên Khách sạn N do ông Q là đại diện theo pháp luật do đó ông Q cho bà Y thuê nhà đồng thời cho bà Y mượn giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp để kinh doanh khách trình thực hiện hợp đồng, bà Y chỉ trả cho ông Q được 01 tháng tiền thuê nhà đồng rồi không tiếp tục trả nữa. Mặc dù nguyên đơn đã nhiều lần liên hệ nhưng bà Y vẫn không thanh toán tiền thuê như hợp đồng hai bên đã thỏa thuận. Mặt khác, ông Q phát hiện bà Y không trực tiếp điều hành việc kinh doanh tại địa điểm kinh doanh mà giao cho người khác quản lý. Đồng thời, bà Y đã tự ý giao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho ông Nguyễn Bá P và ông P đã làm giả hồ sơ đề nghị Sở kế hoạch đầu tư thay đổi người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Một thành viên Khách sạn N thành ông Nguyễn Bá P. Căn cứ tố cáo và đề nghị của ông Q, Sở kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành kiểm tra rà soát, sau khi có kết luận của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định chữ kí của ông Q trong hồ sơ đăng ký thay đổi doanh nghiệp là giả, đã thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần thứ 5 người đại diện theo pháp luật ông Nguyễn Bá P và phục hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần thứ 4 người đại diện theo pháp luật ông Phan Văn Q.Ngoài ra, quá trình bà Y thuê nhà, bà Y đã để cho đối tượng Nguyễn Tiến D thực hiện hành vi “Kinh doanh trái phép” tại địa chỉ thuê, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận R đã ra Quyết định khởi tố bị can và truy nã để xử 10/8/2016 bà Y, ông O và ông P mới chính thức ra khỏi nhà số 39 đường L, Quận R, bàn giao lại nhà cho ông Q trông coi, quản phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn yêu cầu tuyên bố Hợp đồng thuê khách sạn và tài sản ngày 28/8/2013 giữa nguyên đơn và bị đơn là vô hiệu; Buộc bị đơn trả tiền thuê nhà còn thiếu từ ngày 10/9/2013 đến ngày 10/8/2016 sau khi đã cấn trừ đồng tiền cọc và 01 tháng tiền thuê đồng bà Y đã trả là đồng. Thanh toán một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Nguyên đơn tự nguyện chịu lệ phí thẩm định giá tài sản đã nộp ra, nguyên đơn yêu cầu Tòa án duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời “Cấm thực hiện hành vi xuất cảnh ra nước ngoài” đối với bà Trần Thị Y theo Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 69/2016/QĐ-BPKCTT ngày 05/9/2016 của Tòa án nhân dân Quận R để đảm bảo thi hành án.* Bị đơn bà Trần Thị Y trình bàyBà xác nhận bà và ông Phan Văn Q có ký kết Hợp đồng thuê khách sạn và tài sản ngày 28/8/2013 tại địa chỉ số 39 đường L, phường U, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh và bà đã trả trước tiền thuê một tháng là đồng. Hình thức và số tiền đặt cọc để đảm bảo cho hợp đồng thuê đồng như nguyên đơn trình bày là đúng. Sau đó, do bà thường xuyên đi công tác tại nước ngoài không có thời gian quản lý khách sạn nên vào ngày 01/10/2013 bà đã bàn giao toàn bộ khách sạn lại cho ông Nguyễn Bá P và Vũ Đình O quản lý, bà chỉ lập giấy ủy quyền cho ông P và ông O. Ngày 24/11/2013 bà và người đại diện có bàn bạc với nguyên đơn yêu cầu giảm tiền thuê xuống còn đồng/tháng nhưng nguyên đơn không chấp nhận và yêu cầu thanh lý hợp đồng. Từ ngày 24/11/2013 ông Q đã gây khó khăn nên việc kinh doanh gặp nhiều trở ngại phải báo cho chính quyền địa phương và niêm phong, không O hành kinh doanh được trình chuẩn bị xét xử, bị đơn đồng ý chấm dứt hợp đồng thuê nhà với nguyên đơn và chỉ đồng ý trả cho nguyên đơn 02 tháng tiền thuê nhà và cấn trừ vào số tiền đặt cọc bị đơn đã đưa nên số tiền cọc nguyên đơn phải trả cho bị đơn là đồng. Yêu cầu này chưa được Tòa án cho đóng tiền tạm ứng án phí và thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị đơn rút yêu cầu trên, không yêu cầu Tòa án tạm ngừng phiên tòa để thụ lý giải quyết và trên tinh thần thiện chí giải quyết vụ án, bị đơn đồng ý cấn trừ hết số tiền đã đặt cọc đồng trả tiền thuê nhà còn thiếu cho ông Q để chấm dứt hợp đồng đã ký. Nếu nguyên đơn không đồng ý thì bà đồng ý chấm dứt hợp đồng nhưng không đồng ý trả số tiền thuê nhà còn thiếu đồng như yêu cầu của nguyên đơn.* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Vũ Đình O, ông Nguyễn Bá P do người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Xuân U trình bàyNgày 28/8/2013 bà Trần Thị Y đã ký Hợp đồng thuê khách sạn và tài sản tại địa chỉ 39 đường L, phường U, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh với ông Phan Văn Q. Hợp đồng thuê nhà giữa ông Q và bà Y có thời hạn 05 năm, bắt đầu từ ngày 10/9/2013 đến ngày 09/9/ khi thuê, bà Y có nhu cầu cùng hợp tác kinh doanh với ông O và ông P nên vào ngày 05/8/2013 giữa bà Y và ông O, ông P đã lập thỏa thuận hợp tác với nội dung chính các bên đồng ý cùng hợp tác đầu tư kinh doanh khách sạn và cử ông P điều hành hoạt động kinh doanh, tiền thuê nhà sẽ được trích từ doanh thu hàng tháng và giao cho bà Y trả tiền thuê nhà cho ông thời gian thuê nhà, bà Y và ông O, ông P không vi phạm nghĩa vụ của bên thuê và đã tôn trọng thỏa thuận theo Hợp đồng các bên đã ký kết. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty TNHH Một thành viên Khách sạn N do ông Nguyễn Bá P đứng tên làm đại diện theo pháp luật bị thu hồi do lỗi của nguyên đơn và quá trình kinh doanh thực tế do bị cơ quan chức năng kiểm tra và xử phạt do đó bà Y, ông P và ông O không hoạt động kinh doanh được. ông O cũng đã đề nghị thừa phát lại lập vi bằng về việc tạm ngưng kinh doanh từ ngày 19 tháng 12 năm 2015. Quá trình giải quyết vụ án, ông O và ông P có đưa ra yêu cầu ông Q bồi thường thiệt hại chi phí đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên, sau khi Tòa án giao thông báo tạm nộp án phí, xét thấy chưa cần thiết nên ông O và ông P không yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu trên nữa, có tranh chấp sẽ khởi kiện bằng vụ án khác. Đối với yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn, ông O và ông P không có ý kiến gì. Ông O và ông P cũng xác nhận ngày 10/8/2016 chính thức dọn ra khỏi nhà 39 đường L, phường U, Quận R, giao nhà lại cho nguyên đơn quản lý sử bản án dân sự sơ thẩm số 228/2019/DS-ST ngày 09/7/2019 của Tòa án nhân dân Quận R đã tuyênCăn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm g khoản 1 Điều 40; 195; 200; 202; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;Căn cứ vào các Điều 127; 134; 137; 492 Bộ luật Dân sự năm 2005; Căn cứ khoản 3 Điều 93 Luật nhà ở năm 2005;Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án;Căn cứ Luật thi hành án dân sự nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơnTuyên bố Hợp đồng thuê khách sạn và tài sản ngày 28 tháng 8 năm 2013 giữa ông Phan Văn Q và bà Trần Thị Y là vô bị đơn bà Trần Thị Y có trách nhiệm trả cho nguyên đơn ông Phan Văn Q số tiền thuê nhà còn thiếu là đồng ngay khi án có hiệu lực pháp bên thi hành dưới sự giám sát của cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời áp dụng tại Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 69/2016/QĐ-BPKCTT ngày 05 tháng 9 năm 2016 của Tòa án nhân dân Quận R để đảm bảo thi hành ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các đương 22/7/2019, bị đơn bà Trần Thị Y kháng cáo yêu cầu huỷ toàn bộ Bản án số 228/2019/DS-ST ngày 09/7/2019 của Tòa án nhân dân Quận R, Thành phố Hồ Chí phiên tòa phúc thẩmNguyên đơn không rút đơn khởi đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm để xét xử lại vì cho rằng bị đơn không có lỗi trong việc hợp đồng thuê nhà bi vô hiệu và Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng sai quy định của pháp có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu kháng bên đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiếnVề hình thức Đơn kháng cáo của các đương sự làm trong hạn luật định nên hợp lệ, đề nghị Tòa án chấp nhận. Hội đồng xét xử và những người tham gia phiên tòa chấp hành đúng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc nội dung Hợp đồng thuê nhà ngày 28/8/2013 ký kết giữa các đương sự đã vi phạm về hình thức do không có công chứng, chứng thực. Do đó hơp đồng nói trên bị vô hiệu. Lỗi do cả hai bên nên không phát sinh trách nhiệm bồi thường. Thực tế sau khi thuê nhà bà Y đã nhận nhà và đến ngày 10/8/2016 mới trả lại nhà cho nguyên đơn, do đó bà Y vẫn phải có trách nhiệm trả tiền thuê nhà theo thoả thuận của các bên. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ ĐỊNH CỦA TÒA ÁNSau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận và sau khi nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định[1] Về hình thức và thời hạn kháng cáo Ngày 09/7/2019, Toà án nhân dân Quận R xét xử và ban hành Bản án số 228/2019/DS-ST. Ngày 22/7/2019 bị đơn có đơn kháng cáo đề nghị huỷ bản án sơ thẩm. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 thì kháng cáo của bị đơn còn trong hạn luật định và hợp lệ.[2] Xét nội dung kháng cáo của bị đơn yêu cầu huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử nhận thấy [ Về tố tụngVề thẩm quyền giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm Nguyên đơn lựa chọn Tòa án nhân dân Quận R là nơi các bên thực hiện hợp đồng. Bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn cho rằng bị đơn là người nước ngoài, không còn quốc tịch Việt Nam, không cư trú tại Việt Nam tại thời điểm Tòa án nhân dân Quận R thụ lý vụ án và cư trú thường xuyên tại nước ngoài do đó vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận R mà thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ vào hợp đồng thuê nhà và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bị đơn bà Trần Thị Y có địa chỉ tại 152E đường D, phường P, quận B, Thành phố Hà Nội. Bà Y được đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan cấp hộ chiếu số N1580089 do Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan cấp ngày 28/3/2012. Hộ chiếu nêu trên được cơ quan có thẩm quyền cấp cho người có quốc tịch Việt Nam; Căn cứ Công văn cung cấp thông tin xuất nhập cảnh số 2219 CV/QLXNC- P4 ngày 10 tháng 8 năm 2016 của Cục quản lý xuất nhập cảnh – Bộ Công an xác định bà Y dùng hộ chiếu N1580089 xuất nhập cảnh Việt Nam nhiều lần và tại thời điểm Tòa án nhân dân Quận R thụ lý vụ án 02/11/2015 bà Y đã nhập cảnh Việt Nam từ ngày 18/7/2015 và sau đó ngày 29/11/2015 mới xuất cảnh. Sau đó bà Y tiếp tục nhập cảnh, xuất cảnh nhiều lần. Quá trình Tòa án nhân dân Quận R giải quyết vụ án, bà Y có trực tiếp tham gia tố tụng, uỷ quyền cho người đại diện là ông Ngô Trọng I tham gia tố tụng, trình bày ý kiến thưc hiện đầy đủ quyền và nghĩa tố tụng của minh. Do đó Toà án nhân dân Quận R thụ lý, giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm g khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự là đúng thẩm quyền.[ Về nội dung[ Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc tuyên bố hợp đồng thuê nhà vô hiệuNgày 28 tháng 8 năm 2013 ông Phan Văn Q và bà Trần Thị Y kí Hợp đồng thuê khách sạn và tài sản không công chứng, chứng thực có nội dung chính ông Q cho bà Y thuê toàn bộ diện tích nhà đất số 39 đường L, phường U, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh. Để đảm bảo cho hợp đồng thuê nói trên, bà Y đặt cọc cho ông Q đồng thông qua hình thức bà Y cho ông Q vay theo hợp đồng vay tiền có công chứng. Việc đặt cọc và số tiền cọc dưới hình thức hợp đồng vay tiền đã được hai bên thừa đồng các bên đã giao kết bản chất là hợp đồng thuê nhà có thời hạn trên 6 tháng nhưng các bên đã không tuân thủ về hình thức, không công chứng hoặc chứng thực và không đăng ký theo quy định tại Điều 492 Bộ luật Dân sự năm 2005 và khoản 3 Điều 93 Luật nhà ở năm 2005. Do vậy Toà án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng các bên giao kết bị vô hiệu ngay từ thời điểm giao kết do vi phạm về hình thức theo quy định tại các Điều 127; Điều 134 Bộ luật Dân sự 2005 là có cơ sở. Lỗi trong việc làm cho hợp đồng vô hiệu thuộc về cả hai bên đương sự do vậy không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Toà án cấp sơ thẩm cũng đã giải thích về giao dịch dân sự vô hiệu, không đương sự nào có yêu cầu bồi thường thiệt hại, giải quyết hậu quả pháp lý phát sinh khi hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự 2005.[ Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả tiền thuê nhà còn thiếuDo giao dịch dân sự bị vô hiệu nên các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận tuy nhiên sau khi giao kết hợp đồng thuê, bị đơn bà Y đã nhận nhà và thực tế sử dụng do đó bà Y phải có nghĩa vụ trả tiền thuê cho nguyên đơn trong thời gian đã sử dụng cho đến khi giao trả nhà lại cho nguyên đơn. Bà Y xác nhận đã cùng ông O, ông P ký kết hợp tác kinh doanh tại số 39 đường L, Quận R. Việc kinh doanh các bên đồng ý giao cho ông P quản lý, tiền thuê nhà do bà Y đại diện trả cho ông Q tuy nhiên bà Y vi phạm nghĩa vụ trả tiền thuê nhà. Việc ông P và ông O sử dụng nhà của ông Q để kinh doanh là thông qua quyền sử dụng nhà thuê của bà Y đối với ông Q do đó bà Y vẫn phải có nghĩa vụ trả tiền thuê nhà theo nội dung các bên đã thỏa thuận hợp tác. Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả tiền thuê nhà theo thời gian thực tế bị đơn quản lý, sử dụng là có cơ bên đương sự đều xác nhận mặc dù ngày 05/01/2017 Tòa án nhân dân Quận R mới ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 03/2017/QĐ-BPKCTT có nội dung giao cho ông Phan Văn Q được quyền quản lý và giữ nguyên hiện trạng căn nhà 39 đường L, phường U, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng thực tế ngày 10/8/2016 bà Y, ông O và ông P giao trả lại nhà cho ông Q quản lý sử dụng. Do đó Toà án cấp sơ thẩm xác định bà Y có trách nhiệm trả tiền thuê nhà còn thiếu cho ông Q từ ngày 10/9/2013 đến hết ngày 10/8/2016 35 tháng sau khi cấn trừ đi số tiền đặt cọc đồng và 01 tháng tiền thuê bà Y đã trả đồng và ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn chỉ yêu cầu trả tiền thuê nhà theo giá thuê đồng/tháng là có cơ sở. Số tiền bị đơn phải trả cho nguyên đơn cụ thể như sau đồng x 35 tháng – đồng + đồng = người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông O và ông P không có yêu cầu độc lập trong vụ án nên tranh chấp liên quan đến việc hợp tác đầu tư giữa bà Y, ông O và ông P sẽ được giải quyết bằng vụ kiện khác khi có yêu cầu.[ Vụ án Dân sự sơ thẩm thụ lý ngày 02/11/2015, khi xét xử Toà án căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án năm 2009 để tính án phí. Toà án cấp sơ thẩm tuyên căn cứ Nghị quyết 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, tuy nhiên số tiền án phí sơ thẩm mà đương sự phải chịu đã được tính đúng theo cách tính của pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án nên Hội đồng xét xử nhận thấy sự nhầm lẫn này không ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự và không làm thay đổi nội dung vụ án nên kiến nghị Toà án cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự không bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ khác; Xét Toà án cấp sơ thẩm đã điều tra, xác minh đầy đủ, viện dẫn các quy định của pháp luật để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có sơ đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy yêu cầu kháng cáo của bị đơn về việc huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm là không có cơ sở chấp nhận.[4] Về án phí.Án phí Dân sự sơ thẩm Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án bị đơn bà Trần Thị Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đồng và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là đồng. Ông Phan Văn Q không phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, do kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.[5] Về các chi phí tố tụng khác Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn chịu toàn bộ số tiền tạm ứng lệ phí thẩm định giá tài sản đã nộp là các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH- Căn cứ khoản 1 Điều 308; khoản 1 Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;- Căn cứ vào các Điều 127; 134; 137; 492 Bộ luật Dân sự năm 2005;- Căn cứ khoản 3 Điều 93 Luật nhà ở năm 2005;- Căn cứ pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án;- Căn cứ Luật thi hành án dân sự 2008. Tuyên xử1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 228/2019/DSST ngày 09/7/2019 của Tòa án nhân dân Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh như sauTuyên bố Hợp đồng thuê khách sạn và tài sản ngày 28 tháng 8 năm 2013 giữa ông Phan Văn Q và bà Trần Thị Y là vô bị đơn bà Trần Thị Y có trách nhiệm trả cho nguyên đơn ông Phan Văn Q số tiền thuê nhà còn thiếu là hai tỷ hai trăm hai mươi triệu đồng ngay khi án có hiệu lực pháp bên thi hành dưới sự giám sát của cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 69/2016/QĐ- BPKCTT ngày 05/9/2016 của Tòa án nhân dân Quận R về việc “Cấm thực hiện hành vi xuất cảnh ra nước ngoài”.3. Án phí dân sự sơ thẩm Bị đơn bà Trần Thị Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch hai trăm ngìn đồng và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là bảy mươi sáu triệu bốn trăm nghìn đồng. Ông Phan Văn Q không phải chịu án phí. Hoàn lại cho ông Phan Văn Q số tiền tạm ứng án phí đã nộp hai trăm nghìn đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AE/2014/0005460 ngày 02/11/2015 và ba mươi triệu đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AE/2014/0005461 ngày 02/11/2015 của Chi cục thi hành án dân sự Quận R, Thành phố Hồ Chí phí Dân sự phúc thẩm Bị đơn bà Trần Thị Y phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm ba trăm nghìn đồng, được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí ba trăm nghìn đồng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 000788 ngày 25/7/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận R, Thành phố Hồ Chí hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
tranh chấp tiền đặt cọc thuê nhà