Người nhà của nạn nhân chết đuối nhờ "thầy cúng" tới hiện trường "gọi hồn" về với gia đình. Khi "thầy" lội xuống suối thì bị nước cuốn trôi tử nạn. 'gọi hồn' người chết đuối. Thứ ba, 24/9/2013 15:50 (GMT+7) Tầng 7, D29 Phạm Văn Bạch, Quận Cầu Giấy, Hà
TTO - 5 em học sinh khối 11 ở tỉnh Bình Phước trong lúc tắm sông Đồng Nai không may rơi vào vùng nước xoáy khiến 4 em chết đuối. Hiện trường nơi xảy ra vụ chết đuối thương tâm - Ảnh: B.A. Chiều 1-5, lực lượng chức năng huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước đã vớt được
Người đàn ông dũng cảm nhảy sông cứu người trên dòng nước xiết của sông Sêrêpốk cứu cô gái nhảy cầu vào khoảng 9h sáng 12/10/2022 trong đoạn clip chính là anh Trần Kiêm Hiếu (sinh năm 1990), trú tại xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. Khi đưa cô gái vào gần tới bờ, anh Hiếu đã bị đuối sức.
QUP56wa.
2 Tháng Mười Một Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ”. Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi, mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm, thì một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập. Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã. Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này, là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công ồng Triđentinô xác nhận có luyện tội, và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết. Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết. Tuy nhiên, việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang, hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa. Lời Bàn Có nên cầu nguyện cho người chết hay không, là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy, nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách nối liền với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa. Lời Trích “Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục – hoặc ngay cả một thời gian ngắn của hỏa ngục’. Thật phạm thượng khi nghĩ rằng, đó là một nơi chốn mà Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác… Thánh Catherine ở Genoa, vị huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng lửa’ luyện tội là tình yêu Thiên Chúa nung nấu’ trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. ó là sự đau khổ của lòng khao khát, muốn được xứng đáng với ấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, họ đau khổ vì nỗi mơ ước được kết hợp đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn” Leonard Foley, Tin Chúa Giêsu.
Người Việt xưa còn tồn tại nhiều tục lệ xưa cũ và những nghi lễ dân gian về đời sống tâm linh. Tuy nhiên, những tục lệ xưa có những điều không phù hợp, nhưng phần nhiều là rất tiến bộ, có thể áp dụng trong cuộc sống. Chúng ta cùng tìm hiểu một vài tục lệ xưa của cha ông ta cho đến ngày nay một số tục lệ xưa vẫn còn tồn tại hay không còn thịnh hành để biết thêm về đời sống tâm linh của người xưa. Lập đàn chay Lập đàn tràng mấy ngày liền vào tháng Bảy âm lịch hàng năm, có tụng kinh niệm Phật cho các cô hồn. Thoạt đầu một nhà sư cầm gậy tầm xích, theo sau có bà vãi cầm phướn, đánh trống, đánh thanh la, đi quanh bãi tha ma để rước cô hồn về đàn. Đàn tràng có ba tầng tầng trên cùng cúng Phật, tầng hai cúng bách linh cô hồn, tầng ba bày vàng mã. Cúng Phật dùng oản quả, cúng bách linh có thêm đồ mặn. Ngày thứ nhất tụng kinh suốt ngày cho bách linh được siêu sinh tịnh độ. Ngày thứ hai có hai nhà sư mặc áo cà sa, mang đồ lễ múa lượn trước khi dâng cúng hương hoa, trà quả và đồ mặn. Tiếp đó là lễ phóng sinh để chuộc tội cho các vong hồn. Trong lễ chạy đàn phá ngục có mấy đạo tràng đóng các vai Đường Tăng, Đại Thánh, Sa Tăng, Bát Giới chạy xung quanh đàn, có ông thầy phá cửa ngục bằng giấy, giải thoát cho chúng sinh khỏi vòng giam hãm tại cõi âm. Kết thúc là lễ tạ rồi hóa vàng mã. Thuật phù thủy Người xưa tin rằng, thầy phù thủy cao tay có thể bắt ấn phù phép niệm chú để cho người sống xuống được âm phủ tìm gặp người thân đã khuất, có phép làm bùa yêu, bùa mê, hoặc có thể sai khiến âm binh làm những công việc của người trần, nhưng phải thực hiện về ban đêm. Tục lệ xưa lại tin rằng, gia đình có người chết gặp giờ xấu, sợ có trùng hung thần tra khảo, nên phải nhờ thầy phù thủy cho bùa dán trong nhà, trong quan tài và yểm quanh huyệt để trấn tà ma. Người đau ốm mà cho là ma làm, cũng mời thầy phù thủy. Ngoài việc dùng bùa, thầy phù thủy còn niệm thần chú yểm phép vào cây trượng thượng phụ trượng, hoặc làm phép vào con rắn bằng rơm phụ thần bạch xà để diệt tà ma. Người ta còn nhờ thầy phù thủy phụ cành phan để mời hương hồn người thân đã quá cố về nói chuyện một người cầm cành tre ngồi trước đàn, thầy phù thủy niệm chú phụ động để hồn người chết nhập vào người đó và có thể nói chuyện với người đang sống. Cúng giải tà ma Tục lệ xưa tin rằng, tà ma có thể ám ảnh người và gây nên cảnh hiếm hoi, nhất là cảnh hữu sinh cô dưỡng. Cũng có khi vì do có kẻ nào thù hằn mà nhờ bọn thầy pháp sai khiến tà ma ám ảnh. Trong những trường hợp này cần phải cúng giải sự theo đuổi của vong hồn người khuất, người ta thường tụng kinh siêu độ cho những người này. Những người hữu sinh vô dưỡng còn cho là bị giặc Phạm Nhan quấy nhiễu. Phạm Nhan là tên tướng giặc Nguyên sang xâm chiếm nước ta, bị giết chết, ma hồn còn theo đuổi, hãm hại đàn bà sinh đẻ. Bị giặc Phạm Nhan quấy nhiễu cũng phải cúng trừ và phải có bùa yểm. Siêu thăng Việc cầu siêu cho những vong hồn người quá cố là lễ siêu thăng, cầu xin Phật độ cho những vong hồn này thoát khỏi địa ngục. Theo kinh điển nhà Phật thì thành tựu bồ đề chia là ba bậc thượng căn thành Phật ngay, trung căn sau khi chết mới được siêu thăng, hạ căn phải đi vào giai đoạn trung ấm mới thành tựu. Vì vậy hạ căn phải cần đến sự tụng kinh siêu độ và những công đức của con cháu vì họ mà thực hiện. Cho nên, nếu thân thuộc người quá cố biết làm việc công đức, sự siêu thăng ắt có, nhưng phải lấy việc tụng kinh niệm Phật làm điều cốt yếu. Người xưa quan niệm rằng vong nhân sau khi chết phải trải qua nhiều cảnh tượng hãi hung. Cho nên nếu có người niệm Phật, nghe kinh là tự tạo nên hiệu lực vô thường. Trong việc siêu thăng cần phải chú ý ba điều trai giới, thành khẩn và tuyển trạch. Tìm hiểu thêm về “Lễ Cúng Dâng Sao Giải Hạn Ngày Rằm Tháng Giêng” Bắc cầu giải oan Theo tục lệ xưa, đây là lễ cúng những vong hồn vất vưởng, không nơi nương tựa hoặc những người chết do tai nạn bất ngờ. Lễ này nhằm dẫn độ linh hồn từ nơi lâm nạn về nương nhờ cửa Phật. Riêng đối với những người chết đuối, lễ bắc cầu giải oan rất được chú trọng. Và cái gọi là “lễ bắc cầu” ở đây có phần thực tế của nó. Một lễ nghi trọng thể được cử hành, với 11 mục đồ thờ như sau Đặt 2 bàn thờ. Một bàn thờ Hà Bá, Âm phủ để dẫn hồn sứ giả và chư thần đặt trong một long đình với 2 chiếc mũ. Mũ màu trắng là mũ Hà Bá; mũ màu vàng là mũ Âm phủ và một thông điệp cho Sứ Giả Ngũ Đạo Tướng Quân và Đương Cảnh Thổ Địa yêu cầu các vị tiếp dẫn vong hồn vào thần phan. Một bàn thờ vong linh nạn nhân, đặt trên một bàn gỗ, có ảnh hay bài vị nạn nhân, 1 đĩa đặt 2 đồng tiền để xin âm dương. Hai bàn thờ này có bày thêm các đồ lễ thông thường chiếc gương chiếu, đặt trên 1 tấm ván nhỏ, kê trên đòn tay long đình, gương dùng để khai cây kim tích tượng, là cây gậy làm bằng gỗ, tượng trưng cho dấu hiệu của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, Bồ Tát dùng cây gậy này làm rung chuyển cõi âm, phá khóa ngục để cứu vong hồn khỏi bị đày ải, nhằm giúp vong linh đi đến đất thần phan cây phan thần, làm bằng giấy hình chữ nhật. Trên đầu có dấu ấn nhà Phật, tức là chữ Úm, chia làm 3 phần theo chiều dài. Phần giữa ghi tên họ, nghề nghiệp nạn nhân. Phần bên phải ghi ngày tháng năm sinh, phần còn lại ghi ngày mất. Phía dưới thần phải chứa các chỗ trống ghi tên 3 vị thần trông coi thể theo thứ tự từ trái sang phải Bành Cư, bành Kiêu, Bành Chất. Dưới thần Bành Cư có câu chú Tam hồn câu chí ba hồn đều tới. Dưới thần Bành Chất có câu chú Thất phách câu lai bảy vía cùng lại. Nếu người chết là đàn bà thì câu chú là Cửu phách câu lai chín vía cùng đến. Thần phan buộc vào cành tre. Khi hồn nạn nhân được giải oan bắc cầu sẽ nhập vào cành phan dưới sự che chở của Bồ Tát được tượng trưng bời cây kim tích tượng. Nguồn ảnh Một hình nhân, làm bằng đồ mã dùng để thế mạng cho nạn nhân, trên ngực hình nhân có hàng chữ Hình nhân nhất tương thế mệnh X quý công húy Y hình nhân dùng để thế mạng cho ông X húy là Y. Sau buổi lễ, hình nhân được ném xuống cầu vải, được gọi là cầu hồn bắc từ sông lên nhưng chưa chạm tới mặt nước, đến tấm ván đặt gương khai quang, cầu vải có 6 xà ngang bằng que chiếc thang bằng dọc lá chuối, bắc vào cầu hồn, nơi xà ngang cuối cùng của cầu vải, chân thang ngâm xuống nước, vong hồn nạn nhân sẽ theo thang này đi lên cầu lá cờ làm bằng giấy, cắm dọc theo cầu vải vào ngay chỗ có các cọc đỡ xà ngang bằng tre, trên mỗi lá cờ ghi một lời chú hay lệnh của Địa Tạng Vương Bồ Tát cho Hà Bá và các sứ giả để tìm hồn vía của nạn con thần kê, tức là con gà trống nhốt trong lồng đặt bên thần tượng, dưới cầu vải. Pháp sư cho gà nuốt một lá bùa để gà có phép linh tìm được vong hồn nạn nhân. Bởi gà sống có đủ 5 đức tính cao quý vân, vũ, dũng, nhân và tín. Gà sống nuốt bùa nên đã thành gà thần thần kê.Một nồi bùa, là nồi đất có đậy vung, ở trong đựng bùa, trên vung chèn một hòn gạch nặng phòng mãnh lực từ trong nồi phát ra dễ gây tai nạn cho thân nhân người bị chiếc thuyền neo ở bờ sông dùng trong lúc làm lễ. Thuyền sẽ chở nồi bùa, hình nhân và thần kê ra giữa dòng sông rồi ném xuống dòng nước. Nguồn ảnh Theo truyền thống thì pháp sư làm chủ lễ. Chủ lễ và hai phụ tá ngồi trên một chiếc chiếu đặt bên phải bàn thờ. Giữa bàn thờ là bờ sông. Còn gia chủ và thân nhân nạn nhân ngồi trên một chiếc chiếu khác, quay mặt về cùng một phía với chủ lễ. Vào lễ, pháp sư đọc sớ xin Hà Bá chiêu hồn nạn nhân. Sau khi đọc sớ khấn xin Hà Bá và thần linh thì một phụ tá đọc sớ chiêu hồn nạn nhân và cuối cùng là đọc sớ khấn vong hồn nạn nhân. Trong khi đọc sớ, pháp chủ và phụ tá làm phép và đọc sớ xong thì cho hóa ngay. Và sau đó pháp sư dẫn vong hồn nạn nhân nhập vào cành phan. Tiếp theo là lễ khai quang, mục đích là với lễ này, tấm gương sẽ làm cho hồn phách nạn nhân trở lại sáng suốt. Sau lễ khai quang, pháp sư và những người hành lễ xuống thuyền với hình nhân, nồi bùa và thần kê; cho thuyền bơi quanh chỗ nạn nhân lâm nạn, pháp sư cầm thần kê niệm chú, phụ tá đánh trống rồi ném hình nhân và cả thần kê xuống sông. Và cuối cùng là nồi bùa cũng được ném xuống dòng sông, trong lời khấn cầu của pháp sư. Lễ bắc cầu giải oan cho nạn nhân hoàn tất. Lễ gọi hồn Muốn gọi hồn cần phải đặt quẻ, và quẻ phải do người lành vía đặt. Người này đưa một cơi trầu và mấy đồng tiền kẽm. Món tiền này chính là để thù lao cho cô hồn,cô hồn thắp hương đặt lên cơi trầu. Đoạn bưng cơi trầu trong có đặt tiền quẻ, nâng ngang trán khấn ông Chiêu bà Dí để hai vị thần này xuống âm phủ tìm linh hồn người đã chết về. Một lát sau, âm hồn nhập vào cô hồn, kể lể khóc lóc, nói lại lúc lâm chung, tả oán cảnh tình ly biệt. Lúc ấy, người thân xúm vào hỏi hồn. Hồn sẽ tùy những câu hỏi mà trả lời. Và tùy theo người hỏi nhận anh em, vợ con hoặc người khác trong gia đình. Người ta cho rằng, âm hồn có thể nhận đúng ai là cha, ai là mẹ… và nói được chuyện nguyên do tại sao mà chết, chết ngày nào, cho người nhà biết hiện ở âm phủ làm gì và tình trạng ra sao. Âm hồn có muốn xin gì, người nhà sẽ cúng cho. Những cô hồn này nói đúng đều được người nhà thưởng tiền, còn nếu có những câu sai thì cô hồn thay lời âm hồn sẽ nói là quá xót thương người sống nên âm hồn đã nhầm lẫn !?. Âm hồn nhập vào cô hồn một lát, sau khi đã được người nhà hỏi đủ chuyện, rồi thăng. Xem thêm “Lễ Tục Chăm Nom Mộ Tổ Tiên Của Người Việt” Các cô hồn thường là những người sành tâm lý hoặc những người có mục tật không nhìn thấy gì. Nhưng rất thính tai và dường như có giác quan thứ sáu để nhận biết mỗi khi nói sai. Kiêng kị khi gọi hồn Xưa kia, gia đình có người chết, muốn tìm hiểu đời sống của thân nhân mình dưới âm phủ, hoặc muốn nhờ ông bà, cha mẹ mách bảo, khuyên răn điều gì, bèn đi tìm bà đồng nhờ gọi hồn. Trong việc này, người ta kị những điều sau Kị người dữ vía bước vào khi hồn đang nói chuyện với người nhà. Người xưa cho rằng, nếu để xảy ra chuyện đó thì hồn sẽ thăng người nhà của người đi gọi hồn úp nồi đất lên đầu ông Táo. Bởi vì nếu làm như vậy thì hồn sẽ không lên bỏ muối ăn vào bếp. Vì người ta cho rằng, làm như thế thì ông Chiêu bà Dí không hỏi han ông Táo được để đi tìm hồn về. Cúng giải trừ ếm Có những người thù ghét nhau, không thể trực tiếp làm hại nhau được. Họ đã nhờ những thầy ngải, thầy pháp, thầy tự trù ếm kẻ thù, khiến cho kẻ thù thành đau ốm bệnh tật. Muốn khỏi bệnh, phải nhờ các thầy ngải, thầy pháp cao tay hơn cúng giải sự trù ếm. Hoặc phải cúng lễ ở những nơi linh thiêng để xin thần linh giải trừ giúp. Bắt tà Nhiều người bị bệnh, thuốc thang nào cũng không khỏi. Rồi theo tục lệ xưa, đi xem bói, quẻ bói cho biết có ma làm, có thể là những ma đói ma khát, hoặc ma quỷ được thờ cúng ở các gốc đa, gốc đề, ở các miếu bên đường. Gặp những trường hợp trên, phải cúng lễ hoặc yểm bùa mới khỏi. Có khi con ma, con tà bướng bỉnh không chịu tha người ốm, người ta phải tổ chức bắt tà tại các đền điện mới khử trừ được những tà ma này. Trấn ác mộng Tục lệ xưa tin rằng có những ác mộng rất nghiệm. Nên có nhiều cơn ác mộng cần phải trấn trước để khỏi có ứng nghiệm. Muốn trấn ác mộng thì nếu đêm nằm mê thấy điều gì độc ác, sợ hãi, lúc sáng tỉnh dậy đừng nói gì, mà lẳng lặng đi uống ngụm nước rồi ngoảnh mặt về phía Đông mà nhổ. Như vậy, dù ác mộng cũng hóa mộng lành. Hình nhân thế mạng Xưa kia có tục đốt hình nhân thế mạng. Tục lệ xưa này vốn xuất xứ từ tục tuẫn táng tức là chôn sống người hoặc đưa người sống cùng lên giàn thiêu; ở nước ta không có tục này nhưng nhân đạo hơn. Để vua chúa xuống âm cung có người hầu hạ. Người xưa làm hình nộm bằng tre nứa, quấn bằng rơm rạ hoặc nặn bằng đất sét, ngoài dán giấy làm quần áo. Sau đó thầy phù thủy làm phù phép, vẽ bùa, đống ấn. Tế lễ xong thì đốt hình nhân đó cùng với vàng mã. Nếu làm lễ Thủy thần, Long vương, Hà bá thì làm thuyền bằng giấy kết trên thân cây chuối. Rồi đặt hình nhân vào thuyền và thả trôi sông. Đây là một tập tục chứa đầy tính chất mê tín dị đoan. Vậy mà có người nghe theo lời bói toán nhảm nhí là sắp đến vận hạn bị hung thần bắt, đã phải nhờ thầy cúng làm lễ, đốt hình nhân thế mạng. Có người vì mối tư thù nhưng yếu thế không trả thù được bèn làm hình nhân của kẻ thù, cắm ở ngã ba đường rồi thắp hương cắm lên đầu hình nhân để nhờ thần linh bắt tội người đó. Trừ tà Tục lệ xưa tin rằng, muốn ma quỷ không dám tới nhà quấy phá thì trước cửa nhà nên treo một tấm gương hoặc hình bát quái. Cũng có nơi dựng cột đá ngoài cổng, trên đó khắc năm chữ “Khương Thái Công Tại Thử”. Ma quỷ sẽ sợ Khương Thái Công, không dám tới. Muốn giữ cho tài lộc trong nhà luôn thịnh vượng, tục cũng cho rằng nên đặt ngoài cổng hay trước cửa một vài con chó đá. Khi trong nhà có người chết, cũng có tục dán bùa, yểm bùa để trừ tà. Kiêng kị của đình chùa Người xưa rất kị mang của đình, của chùa về nhà mình làm của riêng. Cho dù là vật nhỏ nhất như thanh củi, viên gạch, quả nhãn… Vì cho rằng đó là của Thần, Phật, các vị sẽ làm cho đau ốm thập tử nhất sinh. Nếu ai trot lấy của đình, của chùa, của miếu… thì gia đình phải mang trả ngay những thứ đó và làm lễ tạ. Bên cạnh việc kiêng lấy của đình, chùa về làm của riêng, người ta còn kiêng làm nhà trên đất đình, đất chùa, đất miếu… Vì quan niệm rằng, nếu làm nhà trên đất đó thì sẽ tuyệt tự, mà có con thì cũng sẽ bị ngẩn ngơ hoặc đui mù, câm điếc. Kiêng kị khi qua nơi thờ tự Trước cửa đình, chùa, đền, miếu, điện, nghè, lăng của các làng Bắc bộ xưa kia thường có một bia đá ghi hai chữ “Hạ mã” xuống ngựa. Thực ra bia này không phải chỉ dành cho người cưỡi ngựa thực hiện, mà kể cả những người ngồi trên kiệu, ngồi võng cũng phải xuống. Đọc thêm bài viết “Những Điều Cần Lưu Ý Trong Văn Khấn Thờ Cúng” Đối với những người đội nón mũ thì phải ngả mũ khi đi qua những nơi linh thiêng đó. Sở dĩ người xưa không dám vi phạm điều quy định trên vì sợ thần thánh vật chết, hoặc làm cho ốm đau tàn tật. Kiêng kị đối với những con vật được thờ Tại mỗi nơi thờ tự của làng xưa thường có một con vật được thờ. Chẳng hạn, ở đình đền thì có ngựa; ở nghè, lăng thì có nghê, gấu; ở miếu, điện thì có rắn, hổ… Những con vật này có thể được tạc bằng đá hoặc bằng gỗ. Mặc dù chúng chỉ là loài vật, nhưng khi đã có mặt ở chốn linh thiêng thì chúng cũng được thiêng hóa. Người ta không dám gọi những con vật đó là con, mà phải gọi là ông, là ngài. Ví dụ như ông xà, ông hổ… Người xưa tin rằng nếu ai gọi khác đi thì sẽ bị các ông vật chết. Tránh sét Những người sợ sấm sét hoặc sinh vào giờ lôi đả, mà tục lệ xưa tin rằng là sẽ bị chết do sét đánh, thì mỗi khi có mưa giông thường lấy bỏng ngô họ luôn trữ sẵn trong túi ra ăn để tránh sét. Người ta tin rằng, Thiên Lôi vâng lệnh Trời đi đánh những người có số lôi đả, thấy họ đang ăn thì phải chờ họ ăn xong mới được đánh. Chờ mãi quá giờ phải quay về. Tục còn cho rằng, muốn tránh sét còn có cách khác là khi thấy chớp lóe lên thì lập tức gọi gà “bập, bập!”. Vì tin rằng Thiên Lôi sợ gà sẽ bỏ đi nơi khác. Trong trường hơp có người nhà bị sét đánh chết, thì thân nhân người đó phải thay nhau canh gác phần mộ ít nhất là trong vòng 100 ngày. Bởi vì người ta rất kị bọn cướp đào mộ để ăn cắp hai cánh tay của người ị sét đánh chết.
Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.” Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi mãi cho đến thời đầu Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng dòng Cluny, ra sắc lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công ồng Trent xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và BànCó nên cầu nguyện cho người chết hay không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là phương cách xoá bỏ sự chia lìa với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Trích“Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục – hoặc ngay cả một thời gian ngắn của hỏa ngục.’ Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn, là nơi Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác… Thánh Catherine ở Genoa, vị thần bí của thế kỷ 15, viết rằng lửa’ luyện tội là tình yêu Thiên Chúa nung nấu’ trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. ó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng với ấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, đau khổ vì nỗi mơ ước được kết hợp đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa thực sự được hưởng cách trọn vẹn” Leonard Foley, Tin Chúa Giêsu.
lễ cầu hồn người chết đuối